Dẫn luận : 1. Trong cơ cấu kinh tế truyền thống Việt, loại hình nông nghiệp lúa nước chiếm vai trò chủ đạo. Quá trình tụ cư, hình thành làng xã Bắc Bộ thể hiện thái độ ứng xử với cây lúa nước một cách thuần thục và phổ biến ở các vùng đồng bằng trũng. Trước nạn “nhân mãn”, các “lão nông” đành phải “lùi” ra biển; công việc “quai đê, lấn biển”, “thau chua, rửa mặn”, để “ngọt hoá”, thuần dưỡng đất đai canh tác quả là những “kỳ tích lớn lao
Trên hành trình Nam tiến, những dấu ấn về đất đai, cây lúa, cái cày, con trâu v.v… luôn đè nặng tư duy và phủ kín tâm lý những con người tiên phong, hình thành nên phản ứng quay lưng với phía Tây và phía Ðông dù đó là “rừng vàng”, hay “biển bạc” 1, bởi họ, “xem biển và núi như những điểm khai thác kinh tế thụ động (tước đoạt của trời cho), không hứa hẹn tiền đồ cũng như mở ra một tầm nhìn có tính chiến lược” (Nguyễn Hữu Thông, 2005: 12) 2. Nhiều nghiên cứu cho thấy, ở Việt Nam, những cộng đồng ngư dân có nghề biển phát triển thường có nguồn gốc hải đảo (Nguyễn Từ Chi, 2003; Nguyễn Duy Thiệu, 2003; Trần Quốc Vượng, 1985), trong đó, người Bồ Lô cư trú dọc theo ven biển từ Thanh Hoá đến Quảng Bình là một điển hình 3. Người Chàm ở Trung Bộ được biết đến như một cộng đồng giỏi về biển với những chiếc ghe bầu lớn, họ “tham gia tích cực vào luồng giao thông – buôn bán ven biển quốc tế ở phương Ðông hầu như liên tục từ cổ đại đến trung đại” (Trần Quốc Vượng, 1985: 89).
2. Cùng với truyền thống ruộng nước, sự kém phần ưu đãi của thiên nhiên đã chi phối đến sự hình thành tổ chức xã hội (làng bãi ngang, bãi dọc; chủ vạn, hội đồng làng), và cơ cấu ngành nghề của các làng Việt ven biển miền Trung (bán nông bán ngư) 4. Làm nông nghiệp trên hệ sinh thái đặc thù đất pha cát là một điểm khá đặc biệt của các làng biển miền Trung, bên cạnh các hoạt động ngư nghiệp chủ đạo, khai thác nguồn lợi từ biển cả, nhưng chỉ đánh bắt gần bờ, bởi “kỹ thuật đi biển thấp, không cho phép họ ra khơi ngoài 40, 50 km và chỉ đánh cá một mùa, mùa biển lặng” (Nguyễn Từ Chi, 2003: 652).
3. Trong bối cảnh đó, Lý Hoà là một trong những ngôi làng hiếm hoi thoát ly hẳn nghề nông, phát triển mạnh các hoạt động đánh bắt ven bờ, đồng thời tổ chức những chuyến đi biển dài ngày, vượt ra khỏi tầm kiểm soát 5. Cơ cấu kinh tế chủ đạo là đánh bắt, buôn bán và vận tải, được nhắc đến từ rất sớm, “tục quen buôn bán, bình thời vào Gia – định đóng thuyền nan lớn đến trăm chiếc, mỗi chiếc giá đến hơn nghìn quan, đem về bán lại” (Lê Quý Ðôn, 1977: 104). Có thể nói đó chính là bối cảnh, môi trường đặc biệt quan trọng cho sự ra đời Nhật trình đi biển của ngư dân, như là những biểu hiện về vốn tri thức, kinh nghiệm đi biển, phản ánh khả năng tiếp cận với biển – nét đặc trưng văn hoá của các làng Việt ven biển.
2. Làng Lý Hoà và Nhật trình đi biển.
Không giống như ở miền Bắc với những đồng bằng rộng lớn, nhiều phù sa, sức ép dân số ở miền Trung chủ yếu do đất đai khô cằn, chật hẹp…, nên họ hướng về biển với cái nhìn đa dạng hơn, và đó chính là biểu hiện về sự đa dạng của cơ cấu kinh tế. Mặc dù vậy, về mặt xã hội, các làng biển vẫn giữ nguyên cơ cấu của xã hội nông nghiệp, chỉ có một số khác biệt trong chức năng để thích ứng với môi trường. Ðó là sự thành lập hội của những người chuyên đánh cá (hội bạn thuyền) với tổ chức chính là vạn, trong đó người đứng đầu là trưởng vạn – người có nhiều kinh nghiệm, giỏi đi biển.
2.1. Vài nét về làng biển Lý Hoà
Lý Hoà là một làng sống cạnh biển nổi tiếng của tỉnh Quảng Bình. Từ thế kỷ XVIII, nơi đây được ghi nhận: “Thôn Lý -hoà châu Nam Bố – chính, đất ấy là dư khí của núi Lệ- đệ rủ xuống thành bãi cát bằng, nổi cao mở rộng, dân cư ở ngay bãi trông về hướng nam, đuôi bãi từ bên tả ôm lấy, sông Thuận – cô từ bên hữu chảy lại làm tiền đường, một dải cồn cát sông Thuận – cô làm án, cho nên nhân đinh thịnh vượng đến hơn nghìn người” (Lê Quý Ðôn, 1977: 104).
Tổ chức làng trước đây bao gồm 4 xóm: Thượng, Trung, Nội, Ngoại, với diện tích tự nhiên chưa đầy 1,5 km2. Phía bắc giáp làng Thanh Khê, phía nam là sông Lý Hoà và bên kia là làng Quy Ðức, phía đông giáp biển với đường bờ biển dài 3 km, phía tây giáp làng Thuận Phú. Lý Hoà được người dân các làng kế cận gọi là “kẻ lái” – chuyên nghề đi biển (chủ yếu là đánh bắt hải sản) và buôn bán 6.
Nhật trình đi biển (kể vô) là một tư liệu quan trọng mà chúng tôi tiếp cận được trong một đợt điền dã tại làng Lý Hoà vào tháng 8/2005, mà có lẽ, phần nào giúp chúng tôi hiểu rõ thêm về đặc trưng làng biển miền Trung, từ một trường hợp cụ thể.
2. 2. Nhật trình đi biển
Nhật trình đi biển chính là “công cụ” quan trọng nhất trong hành trang đi biển của ngư dân, mang âm hưởng của thể loại văn học dân gian, có nội dung như chính tiêu đề của nó. Sự phổ biến của hình thức nhật trình cũng như nét khác biệt trong nội dung giữa các bài, đã làm nên nét đặc trưng của văn hoá làng biển, trong vai trò của một “bản hải – địa đồ” cho những người thường xuyên lênh đênh trên biển. Thể loại nhật trình là nhật ký ghi lại những sự kiện, sự việc gắn với các địa danh cụ thể của cư dân trong các cuộc hành trình lao động, sản xuất, giao thương v.v…, ghi dấu một ngày trong một chuỗi thời gian.
Trong kho tàng văn hoá dân gian, có thể kể đến nhiều hình thức nhật trình như nhật trình đi thi, nhật trình đi sứ, nhật trình đi làm quan, nhật trình đi lấy cây, nhật trình đi đày v.v…,trong đó nhật trình đi biển là một nội dung quan trọng, đáng lưu ý (xem thêm Ninh Viết Giao, 1981: 78 – 84).
Dọc duyên hải bắc miền Trung, từ xưa đã nổi danh nhiều làng xã trù phú, văn vật như Cảnh Dương, Lý Hoà (Quảng Bình), Gio Việt (Quảng Trị), Thuận An, Vinh Mỹ, Lăng Cô (Thừa Thiên Huế) v.v… và ở đây, nhật trình đi biển như là một thể loại văn học dân gian phổ biến. Qua khảo sát thực tế cũng như kế thừa các kết quả nghiên cứu trước, chúng tôi nhận thấy “đất sống” của dạng thức nhật trình đi biển này tương đối rộng, và đặc biệt, rất đặc trưng giữa các làng. Tuy nhiên, trong nội dung cũng có nhiều câu trùng lặp ở các bài vè. Chẳng hạn:
Xưa kia nhật trình ta mới kể ra
Bây giờ dần dà ta lại kể vô
Hay:
Hải Vân bát ngát nghìn trùng
Hòn Hành nằm đó là trong vụng Hàn
(Xem thêm Nguyễn Duy Thiệu, 2003: 27 – 33).
Trong di sản dân gian làng Việt ven biển miền Trung, mặc dù nhật trình đi biển có nhiều dị bản ở các làng 7, nhưng nhìn chung, vẫn xuyên suốt nội dung, là “cẩm nang” cho những người luôn đối mặt với sóng gió, biển khơi… Nhật trình đi biển được sáng tác theo lối kể lể và miêu tả một cách cụ thể, sinh động các chặng đường ven duyên, bắt đầu từ điểm xuất phát cho đến đích – sự phong phú từ chính điều kiện cụ thể của các làng, một cửa lạch, cửa sông nào đó. Với Lý Hoà, chuỗi hành trình của ngư dân bắt đầu từ bến bãi đầu làng và dần dần, vô đến Ðồng Nai, Gia Ðịnh v.v…, gọi là “kể vô”, rồi đến khi trở về, lại “kể ra”:
Xưa kia nhật trình ta mới kể ra
Bây giờ dần dà ta lại kể vô
Từ trước cách mạng tháng 8, ở Lý Hoà cũng như cả khu vực miền Trung, các thuyền buôn, thuyền đánh cá đi lại trên biển thường lấy những tiêu điểm cố định như núi non, cửa sông cửa biển, các hòn đảo v.v.. để đánh dấu/định vị các chặng đường vào ra. Nhật trình đi biển chính là thể loại vè dễ nhớ để nói về hải trình, được ngư dân lưu truyền tự bao đời, như là một “giáo trình” căn bản của những người thường xuyên đi biển.
Không rõ bài vè nhật trình đi biển của ngư dân Lý Hoà ra đời vào thời điểm nào nhưng rõ ràng là trong phiên bản mà chúng tôi tiếp cận được, chí ít cũng có một mốc thời gian rất quan trọng đối với đời sống ngư dân Lý Hoà: “Kể từ Tự Ðức thập niên/Phong điều vũ thuận bốn phương thái hoà”. Qua khai thác nội dung và tiếp cận với mức độ ảnh hưởng của nó đối với đời sống ngư dân, chúng tôi nhận thấy bản nhật trình là cả một công trình được sáng tác, bổ sung, chắt lọc qua nhiều thế hệ, kể từ ngày thành lập làng, mà ở đó còn thể hiện rất rõ nhiều địa điểm cụ thể cùng những đặc điểm địa hình, con nước và sản vật tương ứng…
Thực tế cho thấy, trong nội dung của nhật trình, phần nhiều các tác giả dân gian muốn nói đến các địa điểm như cù lao, mỏm núi, các làng xóm ven biển để làm cột mốc đánh dấu an toàn cho cuộc hải trình và đặc biệt hơn cả, ở đó còn chứa đựng kinh nghiệm thực tiễn rất sát sao mà người sau, căn cứ vào đó, có thể tránh được hiểm nguy, neo đậu thuyền an toàn và tiết kiệm thời gian mà vẫn đảm bảo hiệu suất của hải trình. Các địa danh núi non, sông lạch hiện lên mồn một cùng với đặc điểm địa hình khá rõ nét:
Xem lên thấy núi xôn xao
Hè lên sập dưới trở ao lạch Chào
Lạch Chào sóng vỗ lao xao
Cồn Khơi bãi cát dễ vào khó ra
Hay như:
Hòn Sầm nằm dưới còn xa
Hai hòn núi ngọc nằm xa thành ngoài
Dọc duyên hải miền Trung, hải trình của ngư dân Lý Hoà đã khám phá nhiều nét tươi đẹp, những phong cảnh kỳ vĩ, trù phú, nên thơ:
Hải Vân chất ngất ngàn trùng
Hòn Hành chỗ đó là trong vũng Hàn
Hoàn toàn không phải ngẫu nhiên mà người Việt lại sợ núi và sợ luôn cả biển, bởi ngoài các nguồn thuỷ hải sản phong phú, biển cũng chứa đựng trong mình nó biết bao mối hiểm nguy khôn lường, với những bãi đá ngầm, cồn cát, sóng to gió lớn…, mà nếu không giỏi địa hình, sẽ rất khó an toàn, huống là nói đến việc đảm bảo tiến độ cũng như hiệu suất chuyến đi.
Ðêm khuya thổi ngọn gió Tây
Xuôi xuống cửa Nhẩu một giây an toàn
Cửa Nhẩu ngoài ngàn Vũng Áng
Chính vì vậy mà nhật trình đi biển (kể vô) đã có sự hướng dẫn cụ thể về những vùng nguy hiểm, những điểm an toàn để thuyền bè có thể neo đậu những khi sóng to, gió lớn. Kinh nghiệm đó đã được đúc kết:
Ðông bắc thì dựa bãi Chùa 8
Nồm nam dựa Chụt bốn mùa như ao
Ở đây, người ta cũng rất cẩn thận khi nhắc nhở cách thức lèo lái thuyền ở những nơi hiểm nguy:
Trong hòn Rơm, ngoài lao Mũi Né
Chạy mặt ngoài chớ lé đi vô
Trong suốt hành trình gian nan ấy, có thể nói rất hiếm hoi có được được những giây phút nghỉ ngơi với một địa điểm an toàn:
Khe Gà nay đã đến nơi
Hòn Lanh, bãi Gát thảnh thơi một giờ
Nơi đó, có khi cũng là điểm dừng chân ngơi nghỉ, vui chơi tấp nập của ngư dân, lái buôn sau bao ngày lênh đênh trên chặng đường dài:
Sa Kỳ, An Vịnh ghé vào nghỉ ngơi
Chốn nghỉ ngơi nhiều nơi phong cảnh
Hòn cù Lao nằm thủng thẳng mọc dương
…
Khi xưa ông ấy đã truyền
Chạy qua lò rượu gác nền cho khơi
Thảnh thơi ba chốn thảnh thơi
Xuôi xuống Quảng Ngãi một đôi dặm trường
…
Vũng Tàu vui thú lạ miền
Buồm trương ba cạnh cánh tiên chạy vào
Không chỉ nói về những lúc nghỉ ngơi, sinh hoạt của ngư dân, cảnh sinh hoạt của các thôn xóm, phố phường ven biển cũng được ghi lại một cách rất sinh động:
Chốn Nha Trang vẻ vang vui thú
Dọn quán hàng cho các lái bán buôn
Sau nhiều ngày gian khổ, vật lộn với sóng gió, thuyền cũng tới đích an toàn, họ bắt đầu nghỉ ngơi, vui chơi phố sá một cách thoải mái, nó như một kết cục tốt đẹp cho cuộc hải trình dài nhưng vẫn rất an toàn:
Bây giờ đã khởi ngoài vời
Anh em trò chuyện nghỉ ngơi cuốn buồm
Lái thì lo việc lái buôn
Anh em phố sá nghênh ngang ruợu trà.
Trong Nhật trình đi biển, ngư dân Lý Hoà đã đề cập đến rất nhiều tên địa danh ven biển trên cả ba miền Bắc, Trung, Nam của tổ quốc, nhưng có những tên mà ngày nay chúng ta rất khó xác định được, bởi chúng được gọi theo cách gọi của ngư dân (tiếng địa phương), chỉ có họ mới định vị được chính xác: “Ðầu ghềnh núi Nậy đã qua”, hay “Hòn Ông, hòn Mụ bãi Trần không sao” v.v..
Nhìn chung, tinh thần xuyên suốt của bài nhật trình chủ yếu đề cập đến những địa danh, mốc cố định đánh dấu chặng đường biển ra Bắc, vào Nam, những vũng, vịnh cho tàu thuyền neo đậu tránh gió bão… Ít thấy nhắc đến những hiểu biết của ngư dân về vấn đề “thông thiên” trong những chuyến đi biển dài ngày. Phải chăng ngư dân Lý Hoà cũng thực sự chưa phải là những người giỏi đi biển với nhiều kinh nghiệm về hiểu biết trăng sao, con nước…, dạng “Trước thời xem gió ngó trời”.
Từng được mệnh danh là những người giỏi đi biển và các cuộc hải trình của ngư dân Lý Hoà trước đây đã vượt ra khỏi địa phương, vùng miền, với thuyền lớn, trang bị lương thực đủ cho cuộc đi khơi dài ngày. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là sự chuẩn bị cho hải trình ven bờ biển Ðông với tầm nhìn không thoát khỏi những “điểm cao” cố định trên bờ. Ðây chính là sự thể hiện khá rõ nét tư duy của người không biết đến biển khơi: sự chi phối của trình độ, và tâm lý tiểu nông lúa nước. Do vậy, tri thức thiên văn ít được thể hiện trong suốt bài nhật trình là điều dễ hiểu, và chúng tôi xem đây là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với cộng đồng cư dân giỏi nghề biển, hay nói rộng hơn, trở thành một tiêu chí căn bản khi tìm hiểu về văn hoá làng biển.
3.Kết luận
1. Trước hết, có thể khẳng định rằng, nhật trình đi biển có vai trò rất quan trọng đối với cư dân ven biển nói chung và Lý Hoà nói riêng. Trong suốt những cuộc hành trình nhiều ngày đầy hiểm nguy trên biển, bằng kinh nghiệm thực tế, ngư dân Lý Hoà đã sáng tác ra “bài ca” nhật trình đi biển không chỉ để ngâm nga cho khuây khoả nỗi nhọc nhằn mà hơn hết, như là một cuốn cẩm nang nghề nghiệp cho những người làm nghề đánh cá và vận tải đường biển. Ðó là cả một kho tri thức quý báu về địa lý, về kinh nghiệm đi lại bằng phương tiện tàu thuyền trên suốt tuyến đường biển từ Bắc vào Nam; chỉ cho họ thấy các tiêu điểm, biết được các bãi dọc bãi ngang, vũng vịnh nào lắng, nhiều đá ngầm, và chỉ cần nhìn tiêu điểm, đã biết định vị cũng như phương hướng cần thiết cho con thuyền.
Nhật trình đi biển là cuốn “cẩm nang”, “tri thức bản địa” của những người “đi lộng”, phục vụ đắc lực cho hoạt động đánh bắt, buôn bán, vận tải đường biển, mà nếu thoát ra khỏi những tiêu điểm đó, họ sẽ gặp phải vô vàn những khó khăn, bất trắc.
2. Về giá trị văn học – văn hoá. Nhật trình đi biển của ngư dân Lý Hoà, cũng như các bài nhật trình của các làng biển khác ở khu vực miền Trung, là một tác phẩm “văn học dân gian vùng biển”, phản ánh vốn văn hoá của ngư dân ven biển trong quá trình sinh tồn, đóng góp thiết thực vào cuộc sống, công việc làm ăn cho chính họ – người thường xuyên đi biển.
3. Về giá trị “Ðịa danh học”, nhật trình đi biển cung cấp một lượng thông tin quý báu, chính xác, có giá trị lịch sử – văn hoá về các tên làng, tên đất, tên biển, về danh lam thắng cảnh v.v… của đất nước dọc miền duyên hải; đồng thời, cho chúng ta những cái nhìn tổng quát về các địa danh, gắn với quá trình hình thành các làng – nghề ngư của người Việt ven duyên.
4. Toàn bộ nội dung của nhật trình đi biển của ngư dân Việt Nam nói chung và làng Lý Hoà nói riêng, đã phản ánh toàn bộ tính chất nghề nghiệp dù đánh bắt hay vận tải, buôn bán với hải trình khá xa, nhưng vẫn là kiểu di chuyển trên “lộng”, chủ yếu dựa vào những tiêu điểm định hướng trên đất liền. Lịch sử cũng đã cho chúng ta thấy sự khiếm khuyết và yếu ớt của nền ngoại thương của người Việt Nam trong việc chủ động quan hệ bằng đường biển với thị trường nước ngoài, cho nên, nếu tri thức về thiên văn trong ngư dân Việt Nam yếu kém so với các quốc gia khác trong khu vực Ðông Nam Á cũng là điều dễ hiểu.
N.T.L
Tài liệu tham khảo
1. Lê Ðình Hùng (2005), “Từ việc khảo tả Vân phụng tiên y nghĩ về dấu ấn chính sách ky my thời Nguyễn ở miền núi Quảng Trị”, trong Thông tin Khoa học, Phân viện Nghiên cứu Văn hoá Thông tin tại Huế, số tháng 3: 208 – 217.
2. Lê Quý Ðôn (1973), Phủ Biên tạp lục, Sài Gòn: Tủ sách Cổ văn, Uỷ ban dịch thuật, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hoá xuất bản.
3. Lê Quý Ðôn (1977), Phủ Biên tạp lục, Hà Nội: Nxb KHXH.
4. Ngô Ðức Thịnh (cb) (2000), Văn hoá dân gian vùng ven biển, Hà Nội: Nxb. Văn hoá dân tộc.
5. Nguyễn Duy Thiệu (2003), “Nhật trình đi biển của người Bồ Lô tại vùng biển Bắc Trung Bộ”, trong Tạp chí Văn hoá dân gian, số 6 (90): 27 – 32.
6. Nguyễn Hữu Thông (2005), “Cây lúa trên lưng và con đường trước mắt”, trong Thông tin Khoa học, Phân viện Nghiên cứu Văn hoá Thông tin tại Huế, số tháng 3: 7 – 19.
7. Nguyễn Tú (1998), Quảng Bình nước non và lịch sử, Sở VHTT Quảng Bình xuất bản.
8. Nguyễn Từ Chi (2003), “Quanh chuyện cảnh quan và bộ mặt tộc người”, trong Góp phần nghiên cứu văn hoá và tộc người, Hà Nội: Nxb Văn hoá Dân tộc, Tạp chí Văn hoá – Nghệ thuật.
9. Ninh Viết Giao (1981), “Bước đầu tìm hiểu những bài ca nhật trình”, trong Tạp chí Văn học, số 1.
10. Phạm Diệp (1985), “Một góc nhìn dân tộc học về biển”, trong Tạp chí Dân tộc học, số 2: 3 – 10.
11. Trần Quốc Vượng (1985), “Chiêm cảng Hội An với cái nhìn về biển của người Chàm và người Việt”, trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Hội An Khảo cổ – lịch sử, Trung tâm Bảo tồn Di sản – Di tích Quảng Nam: 84 – 94.
12. Từ Chi – Phạm Ðức Dương (1996), “Vài nhận xét về cách ứng xử của người Việt trước biển”, trong Tạp chíThông Tin Khoa Học & Công Nghệ Thừa Thiên – Huế, Số 01.
2 Hành trang của những người Việt tiên phong trong bước đường mở rộng lãnh thổ về phương Nam, cây lúa nước như là yếu tố chính đảm bảo cho sự sinh tồn, mặc dù yếu tố khí hậu, thổ nhưỡng ở đó chưa chắc đã phù hợp. Những ngôi làng hình thành sớm trên dải đất “trước biển, sau núi” miền Trung chủ yếu bám lấy những dải đồng bằng nhỏ hẹp dọc các con sông nghèo phù sa. |
3 Người Bồ Lô có thể là cư dân Chàm thời xa xưa, sống trên biển. Thuyền của họ vừa là nhà, vừa là công cụ sản xuất, kỹ thuật đi biển thành thạo, đánh bắt cá rất giỏi, xưa họ sống thành từng “vạn”, có làng, có tổng riêng với tập tục riêng (Theo Nguyễn Duy Thiệu, dẫn trong từ Chi – Phạm Đức Dương, 1996: 25 ). |
4 Bởi ngư nghiệp vẫn chưa đảm bảo ổn định được cuộc sống. Rất ít các làng biển ở Việt Nam, cụ thể là ở miền trung, chỉ sống đơn thuần vào kinh tế biển – là ngư dân mà chủ yếu, vẫn là những cộng đồng không quên nông nghiệp, hay vẫn dựa vào nông nghiệp (Nguyễn Từ Chi, 2003: 652). |
5 Làng Lý Hoà ngoài thổ cư, không có đất nông nghiệp. Từ xưa, Lý Hoà đã nổi tiếng khắp vùng là những người giỏi đi biển, buôn bán, giàu có thuộc loại “nhất nhì tỉnh Quảng Bình, làng ấy còn có tiếng là văn vật” (Lê Quý Ðôn, 1973: 186). |
Để lại một bình luận